Home
» Chính trị
» KIẾN THỨC
» KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA NHỮNG THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA NHỮNG THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018
Mặc dù mô hình CNXH hiện
thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhưng Việt Nam là một trong những nước còn
lại vẫn tiếp tục kiên định với con đường đi lên CNXH vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và “đã giành được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh của đất nước đã tăng
lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con
đường xã hội chủ nghĩa”.
Thực tiễn trên là một trong
những cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục sự khẳng định: kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay diễn ra
trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những thời cơ và thách thức đan xen.
Chúng ta phải tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, kiên định con đường XHCN.
Trong quá trình đó, cần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
Một là, tiếp tục khẳng định
độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đây là vấn đề cơ bản, xuyên
suốt, bảo đảm cho cách mạng Việt nam giành được thắng lợi trong cách mạng trước
đây, cũng như từ nay về sau. Để xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân có đời
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh, chúng ta không có con đường nào khác
ngoài con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội đích thực vẫn là tương lai
của nhân loại, vẫn là xã hội thay thế xã hội tư bản hiện đại. Bởi vì: CNTB hiện
đại tuy có một số ưu điểm, thành tựu nhưng không thể khắc phục được quy luật
vốn có của nó mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vạch ra (quy luật khủng hoảng kinh tế chu kỳ, quy luật diệt vong tất yếu của
nó...). Sự sụp đổ của nền tài chính Mỹ và các nước tư bản phát triển ở Tây Âu
phải chăng đã báo hiệu sự tất yếu diệt vong đó của CNTB hiện đại.
Tại khoá họp thường
niên lần thứ 63 của Hội đồng liên hợp quốc ngày 23-9-2008, Tổng thống Pháp
N.Xác-Cô-Di - Chủ tịch luân phiên của Liên minh Châu Âu (EU), đã kêu gọi các
nhà lãnh đạo chủ chốt trên thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh để rút ra
bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay; đồng thời, “Tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản điều
chỉnh”. Vấn đề đặt ra là: vì sao lại phải tái xây dựng CNTB
điều chỉnh? Phải chăng nó đã hoàn toàn không có thể tránh khỏi khủng hoảng chu
kỳ, mà nó còn làm sâu sắc thêm các cuộc khủng hoảng, biến khủng hoảng kinh tế
quốc gia thành cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu? Cuộc khủng hoảng sâu sắc
đến mức sự can thiệp của nhà nước có nền kinh tế lớn nhất hành tinh là (Mỹ) với
hơn 1 ngàn tỉ USD nhưng hiệu quả vẫn rất thấp và người ta còn đang lo ngại về
nguy cơ quay trở lại của chủ nghĩa bảo hộ. Cuộc khủng hoảng đầu tiên của CNTB
hiện đại trong thế kỷ XXI đã làm “sống lại” học thuyết Mác - Lênin. Tại Đức,
C.Mác đã được bình chọn là công dân Đức vĩ đại nhất trong mọi thời đại, trong
các dân tộc và là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới đương đại. Tại
nga, V.I.Lê-nin cũng được đánh giá là một trong những người vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân laọi thế kỷ XX. Như vậy, trong sự bất lực của thể chế kinh tế TBCN
hiện đại, nhân loại đã phải trở về với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin để
tìm giải đáp. Thêm vào đó, những năm gần đây sự xuất hiện trào lưu mới (cánh
tả) hay còn gọi là CNXH Mỹ-La-Tinh, chứng tỏ con đường XHCN vẫn là xu thế phát
triển của thời đại.
Ngày
nay, khi nhân loại đang tiến tới thời đại kinh tế tri thức, thì những tiêu chí
của CNXH và chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ sở để trở thành hiện thực. Kinh tế
tri thức là nền kinh tế phát triển dựa
trên tài nguyên trí tuệ là chủ yếu với những đặc điểm nổi bâth: về lực lượng sản xuất, là nguồn nhân lực
với vốn trí tuệ ngày càng cao, về quan hệ
sản xuất, sở hữu và sử dụng luôn có sự đan xen và mở rộng, phân phối và
trao đổi mang tính chất vừa hợp tác, vừa cạnh tranh cao.
Thực
tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với
yêu CNXH. Sự khủng hoảng của CNTB hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với học
thuyết của chủ nghĩa mác - Lênin đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH” không chỉ là bài học lịch sử mà còn là yêu cầu của của cả hiện tại và
tương lai.
Hai là, ngay trong từng bước đi
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thể hiện rõ tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội
Thực
tế hơn 30 năm đổi mới và phát triển, đất nước ta đã thu được những thành tựu
quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nhận thức và đánh giá về tình hình đó
lại có sự khác nhau, do cách nhìn nhận khác nhau. Có luận điểm cho rằng: có
được thành tựu đó là do chúng ta đã trở lại với quy luật phát triển tự nhiên,
tức là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; hoặc có luận điểm cho rằng: do chúng
ta quá nhấn mạnh định hướng XHCN nên đã đã tạo sự e ngại của các nhà đầu tư
nước ngoài, vì thế tốc độ phát triển kinh tế tuy có nhanh, nhưng vẫn bị hạn
chế... Điều đó, đòi hỏi chúng ta vừa phải kiên định định hướng XHCN, vừa phải
cụ thể hoá mô hình XHCN để mọi người dân thấy rõ tính ưu việt của xã hội XHCN.
Những
thành tựu của đất nức như: xoá đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh quốc phòng, ổn
định chính trị - xã hội, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, hạn chế và khắc
phục có hiệu quả những tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn
cầu, được thế giới công nhận, cần phát huy. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần đầu
tư thoả đáng hơn nữa các chính sách xã hội như: trợ cấp thất nghiệp, bảo đảm y
tế, phúc lợi xã hội... để cho người dân iệt nam có thể cảm nhận được tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, trên cơ sở kiên định con
đường đã chọn, biết tiếp thu, vận dụng những thành tựu của nhân loại vào xây
dựng xã hội mới
Cho
đến nay, đường lối đổi mới của Đảng đã đem lại những thành tựu to lớn, được cả
các nước đi theo con đường TBCN và XHCN ủng hộ, nhưng với động cơ và nhận thức khác nhau.
Chẳng
hạn như: vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các nước theo con đường TBCN
thì cho rằng: đây là quá trình tư nhân hoá; còn chúng ta cho rằng: đây là quá
trình phát triển kinh tế tư bản nhà nước, một bộ phận cấu thành nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng XHCN, mà học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã đề cập. Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng có
ý kiến coi đây là đi theo CNTB. Nhưng thực chất đó là sự vận dụng những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được trong giai đoạ phát triển của CNTB hiện đại vào
xây dựng xã hỡngHCN, chứ không phải là xa rời học thuyết mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trong xây dựng xã hội mới nói chung, thực hiện kinh tế thị trường
nói riêng, chúng ta luôn quan tâm thực hiện các biện pháp định hướng XHCN để
thể hiện rõ tính ưu việt của XHCN so với xã hội TBCN trong thời kỳ quá độ lên
CNXH....
Để
tiếp tục kiên định con đường XHCN và tiếp thu những thành tựu của thế giới vào
xây dựng xã hội mới, chúng ta cần giải quyết nhiều vấn đề; trong đó, hết sức
chú ý đến một số vấn đề sau:
- Giữ vững sự lãnh đạo độc tôn của Đảng cộng sản Việt nam, chống mọi âm
mưu thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; vì sự lãnh đạo của
đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam trong giai mọi
đoạn.
- Đẩy
mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm
với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới. Trong quá trình đó, đặc biệt đề
phòng nguy cơ “tự diễn biến”; vì nó đe doạ trực tiếp đến sự trường tồn của chế
độ XHCN ở nước ta.
- Kiên
trì đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; vì kinh tế nhà nước là cơ sở vật chất để nhà nước
điều tiết vĩ mô, định hướng phát triển của nền kinh tế.
- Tăng
cường hợp tác với các nước tư bản phát triển để kế thừa và phát triển khoa học
- công nghệ hiện đại và học tập trình độ quản lý của họ; vì đây là những quốc
gia hàng đầu về tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ (có công nghệ cao, công
nghệ gốc, công nghệ nguồn...), có vai trò chi phối thế giới. Thông qua quan hệ
hợp tác có hiệu quả với họ, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thực hiện
chiến lược “đi tắt, đón đầu” trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, loại
trừ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với một số nước trong khu vực. Đây
cũng là những giải pháp mà các nước lớn, như: Nhật Bản, Trung Quốc, gần đây là
Ấn Độ... áp dụng.
- Xây
dựng quan hệ chiến lược với các nước theo định hướng XHCN; vì đây là mối quan
hệ truyền thống giữa các nước có chung mục tiêu xây dựng CNXH (tuy mô hình,
hình thức cụ thể khác nhau) và đều có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây sẽ là
nhân tố quan trọng góp phần loại trừ nguy cơ chệch định hướng XHCN.
- Đẩy
mạnh quan hệ truyền thống với các nước trước đây đã từng là đồng minh chiến
lược, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược; đồng thời, phát
triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức
quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa
bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Với việc
xác định các mối quan hệ như trên, chúng ta sẽ tranh thủ được sự hợp tác quốc
tế; vừa khai thác được thế mạnh, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi nước
tạo sự chế ước lẫn nhau giữa các nước, hướng tới xây dựng mối quan hệ chiến
lược với cả các nước lớn, các nước phát triển mà vẫn giữ được độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường với phương châm: chấp nhận sự tuỳ thuộc lẫn nhau,
nhưng không chấp nhận sự lệ thuộc vào bất kỳ nước nào.
Kiên
định con đường XHCN trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng những thành tựu tiến bộ của nhân
loại đạt được trong thời kỳ CNTB hiện đại để xây dựng thành công CNXH ở Việt
Nam theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn có cơ
sở lý luận và thực tiễn khách quan, khoa học./.
H. Đức (st)
Bài liên quan

Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét