Khởi nghĩa Nam Kỳ, tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam
Thứ Tư, 23 tháng 11, 2016
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ngày
23/11/1940 là một bản hùng ca bi tráng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của
nhân dân Nam Kỳ.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Sự chà đạp
và tước đoạt của thực dân Pháp đối với nhân dân ta lên đến cực điểm cùng mưu mô
đầu hàng thỏa hiệp với phát-xít Nhật đã đặt ra trước mắt vấn đề sống còn của
các dân tộc Ðông Dương. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng
gay gắt.
Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn, không cam chịu cuộc sống
nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ nhất tề đứng lên tranh đấu.
Ðến giữa tháng 11/1940, trước tình hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần
phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát
động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về
tay nhân dân.
Một số nơi giành được quyền làm chủ, làm cho địch thiệt hại, đánh
đổ nghiêm trọng uy thế kìm kẹp của địch. Lần đầu tiên trong lịch sử, cờ đỏ sao
vàng tung bay trên nóc các trụ sở chính quyền thực dân được quân ta tiến chiếm,
đã trở thành biểu tượng niềm tin tất thắng và tinh thần tự tôn dân tộc.
Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ
là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và quyết liệt nhất kể từ khi
thực dân Pháp xâm lược nước ta. Thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man cuộc khởi
nghĩa.
Rất nhiều đồng bào, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đã bị địch bắt,
tra tấn, tù đày, giết chóc vô cùng tàn bạo với bao tổn thất. Các đồng chí lãnh
đạo, những người con ưu tú của của dân tộc, của Đảng như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy
Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu... đã anh
dũng hy sinh trước họng súng quân thù.
So với cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) cũng như so với hai
cuộc khởi nghĩa cùng diễn ra trong năm 1940 (khởi nghĩa Ba Tơ: 11/3 và khởi
nghĩa Bắc Sơn: 27/9), thì khởi nghĩa Nam Kỳ có quy mô rộng khắp. Đó là một cuộc
diễn tập lớn nhất và mạnh mẽ nhất của đồng bào Nam Bộ và của cả nước, kể từ khi
thực dân Pháp xâm lược (năm 1858) cho đến lúc đó.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tuy thất bại nhưng đã có tiếng vang lớn,
không những trong nước mà còn làm nức lòng cả những chiến sĩ cách mạng ở Pháp.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Đảng Cộng sản Pháp đã gửi đến Đảng Cộng sản Đông
Dương một bức thư, trong đó có đoạn: “Chúng tôi cúi đầu trước vong linh những
người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã hy sinh hồi tháng 11 dưới súng liên thanh
của Decoux, Beaudouin, Pétain… Chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước những
người anh hùng đó, đặc biệt chúng tôi nghiêng mình trước những anh chị em ruột
thịt anh hùng là đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương”.
Ngày 14/4/1948, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 163/SL tặng Huân
chương Quân công hạng nhất cho Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ, nhằm tôn vinh ý
nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa đối với lịch sử cách mạng Việt Nam. Tinh thần
quyết tử cho dân tộc quyết sinh của các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã góp phần
hun đúc lòng dũng cảm, chí kiên cường cho Đảng ta, cho cả dân tộc ta để giành
thắng lợi trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa là hiệu kèn giải
phóng hùng dũng báo hiệu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Khởi nghĩa Nam Kỳ nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần kiên
cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Qua trận thử lửa này, quần chúng càng
gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách mạng, củng cố nhận thức: Con đường
sống duy nhất của dân tộc là phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản
cách mạng của bọn đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập tự do.
Theo BÁO NGHỆ AN
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét