Phê phán luận điểm Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chống tham nhũng, suy thoái
Thứ Hai, 26 tháng 6, 2017
Luận
điểm Đảng Cộng sản không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công với
những suy diễn chủ quan, võ đoán thực chất là luận điệu xấu của các thế lực thù
địch, phản động, phần tử cơ hội nhằm gieo rắc tâm lý hoang mang, mất niềm tin của
nhân dân.
Để
có nhận thức khách quan, khoa học về vấn đề này, thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khoá XII) của Đảng, chống suy thoái chính trị, tư tưởng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”, Báo CAND trân trọng giới thiệu bài viết của PGS, TS Vũ
Như Khôi, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng.
Hiện
nay, toàn Đảng, toàn dân đang triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XII và các nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
- chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Lợi dụng tình hình dư luận xã hội đang bức xúc về tệ nạn tham
nhũng, suy thoái của một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ các vị
trí lãnh đạo cơ quan chính quyền, quản lý kinh tế; công tác xây dựng Đảng, ngăn
chặn đẩy lùi tham nhũng, suy thoái của Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm,
dẫn đến kết quả chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đặt ra, một số người đã tung ra luận
điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái
thành công”.
Luận
điểm này chỉ là lẻ tẻ của một số người và chỉ dựa trên mấy luận chứng chủ quan,
võ đoán như: Tham nhũng, suy thoái là căn bệnh kinh niên của chế độ độc đảng cầm
quyền; vì xã hội ta thiếu dân chủ nên không thể chống tham nhũng, suy thoái
thành công; đã nhiều lần phát động chống tham nhũng, suy thoái nhưng đều không
thành công, tệ nạn lại càng gia tăng... Từ đó, họ kết luận cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, suy thoái của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công.
Cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái có thành công hay không phải dựa trên những
chứng cứ lịch sử, lại phải có cách đánh giá khách quan, toàn diện, dự báo đúng
chiều hướng phát triển của tình hình.
Quốc
gia nào cũng vậy, trong mỗi thời điểm đều do một đảng cầm quyền. Khi đảng nào cầm
quyền thì người đứng đầu và các chức vụ quan trọng của chính quyền nhà nước đều
do người của đảng đó đảm nhiệm; đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền sẽ chi
phối đường lối, chính sách của quốc gia. Dù là chế độ một đảng cầm quyền hay đa
đảng thay nhau cầm quyền thì nạn tham nhũng, suy thoái vẫn thường xảy ra, kể cả
các nước phát triển có hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh, có trình độ quản lý
kinh tế, xã hội cao.
Điều
quan trọng hơn hết là đảng nào có mục tiêu vì nước, vì dân, giáo dục, quản lý tốt
cán bộ, đảng viên, thì có thể hạn chế đến mức thấp nhất nạn tham nhũng, suy
thoái, không gây nên những tiêu cực lớn đối với xã hội.
Đảng
Cộng sản Việt Nam kể từ khi ra đời, lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền,
cán bộ, đảng viên của Đảng tuyệt đại đa số đều là những nhà cách mạng tự nguyện
từ bỏ lợi ích bản thân, xả thân chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt của các nhà lãnh đạo Đảng, các
cán bộ, đảng viên, mãi mãi lưu danh trong lịch sử vẻ vang của Đảng như Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hoàng Văn
Thụ,…
Tuy
nhiên ngay từ đó, trong cuộc đấu tranh lưu huyết một sống, một chết dưới ách thống
trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến cũng đã có những người không chịu
nổi thử thách gian nguy, tự rời bỏ hàng ngũ cách mạng, thậm chí đầu hàng địch,
phản bội cách mạng. Những người thiếu kiên trung với cách mạng, có biểu hiện dao
động, cầu an đã bị đào thải. Nhưng đó chỉ là những trường hợp cá biệt. Đảng
không vì thế mà yếu đi. Đảng càng trong sạch và ngày càng phát triển vững mạnh,
được các tầng lớp nhân dân tin tưởng, tôn vinh vai trò lãnh đạo và tình nguyện
chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng...
Thời
chiến, khi mâu thuẫn dân tộc lên cao độ, mọi người đều dồn tâm lực vào việc
đánh giặc cứu nước, được Bác Hồ và Đảng giáo dục, rèn luyện nên tuyệt đại bộ phận
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên ra sức phấn đấu hoàn thành chức trách, nhiệm
vụ, xứng đáng là những người cách mạng chân chính. Trong hai cuộc chiến tranh
giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thật sự xứng đáng là đội tiên phong cách
mạng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, đánh thắng hai tên
đế quốc lớn mạnh, giành độc lập tự do, thống nhất cho quốc gia dân tộc.
Trong
kháng chiến, đảng viên cộng sản là những người tiên phong nhận nhiệm vụ khó
khăn, nguy hiểm, chấp nhận hy sinh bản thân mình để giành thắng lợi cho cách mạng.
Họ đã trở thành những anh hùng bất tử, nêu tấm gương sáng cho bộ đội và nhân
dân noi theo quyết chiến quyết thắng với quân thù. Khi đó, cũng có một số người
phạm vào tội lỗi tham ô, lãng phí, quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án, gọi
đó là “giặc nội xâm”, là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Tội lỗi đó
làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng
và Nhà nước.
Những
kẻ phạm tội đó, dù ở cương vị nào cũng phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật để
đề cao phép nước. Bản án tử hình dành cho Giám đốc Nha Quân nhu Trần Dụ Châu về
tội lợi dụng chức quyền nhận hối lộ, tham ô, sa đọa, thể hiện sự nghiêm minh của
Đảng, Chính phủ trong thực thi pháp luật.
Chính
vì sự tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên và việc Đảng, Nhà nước xử lý
không khoan nhượng đối với những người phạm tội với cách mạng, với nhân dân, đã
khiến cho Đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo kháng chiến thắng lợi.
Trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, biết bao cán bộ, đảng
viên Quân đội ngày đêm ở nơi xa xôi biển đảo, biên cương canh giữ chủ quyền đất
nước; nhiều cán bộ, đảng viên Công an dũng cảm chiến đấu trên mặt trận thầm lặng,
giữ gìn an ninh chính trị và cuộc sống yên bình cho nhân dân; những cán bộ, đảng
viên trực tiếp sản xuất vất vả trong nhà máy, trên đồng ruộng; những cán bộ, đảng
viên lao động trí óc ngày đêm miệt mài nghiên cứu, sáng tạo, đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp chung, không tính toán thiệt hơn, không đòi hỏi sự ưu ái cho
riêng mình.
Đó
là những bằng chứng lịch sử minh chứng cho đánh giá của Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII: “Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành
và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn
đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên
mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên”.
Như
vậy, từ thực tế nền chính trị các quốc gia trên thế giới và lịch sử chế độ
chính trị Việt Nam thời hiện đại đã chứng tỏ chế độ một đảng cầm quyền không phải
là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng, suy thoái trong xã hội. Vấn đề dân chủ
trong xã hội, đây là một vấn đề lớn, không một quốc gia nào dám tự coi là đã thực
hiện một cách hoàn hảo. Mỗi quốc gia, dân tộc thực hiện dân chủ xã hội tùy thuộc
vào tình hình chính trị - xã hội, sự hoàn thiện
hệ thống pháp luật, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống,
phong tục, tập quán dân tộc và trình độ dân trí…
Từ
thực tế nền chính trị các quốc gia trên thế giới và lịch sử chế độ chính trị Việt
Nam thời hiện đại đã chứng tỏ chế độ một đảng cầm quyền không phải là nguyên
nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng, suy thoái trong xã hội.
(theo cand.com.vn)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét