
Sự khác biệt giữa tự diễn biến, tự chuyển hóa và đổi mới
Thứ Ba, 26 tháng 9, 2017
Đánh
tráo khái niệm là một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch, những phần
tử cơ hội chính trị thường dùng, hòng đánh lừa dư luận, gây sự hoài nghi trong
nhân dân. Nguy hiểm hơn là, chúng đã đánh đồng giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhằm làm mất đi bản
chất, ý nghĩa chính trị to lớn của sự nghiệp đổi mới này.
Sau
Đại hội XII của Đảng, đặc biệt sau Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, trên một số mạng xã hội đã phát tán ý kiến về “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” mà Hội nghị đã nêu. Trong một cuộc “tọa đàm bàn tròn” trên BBC,
có vị “khách mời” cho rằng: khái niệm “tự
diễn biến” là cực kỳ mơ hồ, điều đó thể hiện sự “bế tắc về lý luận” (!) Cũng
theo vị khách đó, nếu một cơ thể mà không “tự chuyển biến”, “tự diễn biến”, thì
đó là một cơ thể chết. Xã hội cũng vậy, một xã hội muốn phát triển phải tự vận
động và trong quá trình vận động đương nhiên phải “có chuyển biến”. Ý kiến trên
và những quan điểm tương tự được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây, như:
VOA, RFA, CNN và nhiều trang mạng trong và ngoài nước như “vớ được vàng”, lập tức
tung hô, tán thưởng. Có người còn cho rằng, làm gì còn đổi mới, làm gì còn chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, làm gì còn xã hội xã hội chủ nghĩa, chẳng phải “Đảng cộng sản
Việt Nam đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó sao?
Vậy
bản chất quan điểm nói trên là gì?
Trước hết, đối với quan điểm phủ nhận tư tưởng
đổi mới, đồng nhất giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đổi mới.
Còn
nhớ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã quyết định thay đổi đường lối chính trị -
kinh tế, chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội
(với nhà nước chuyên chính vô sản, kinh tế kế hoạch hóa,…) sang xây dựng đất nước
theo mô hình mới của chủ nghĩa xã hội (với nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,…). Cùng thời điểm đó
xảy ra cuộc khủng hoảng, sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
Xô những năm 1985-1991 đã đặt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vào một
tình thế vô cùng khó khăn. Song, với bản lĩnh chính trị vững vàng và kinh nghiệm
thực tiễn phong phú, nhất là chứng kiến cuộc khủng hoảng trên, Đảng ta sớm nhận
thấy những nguy cơ đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, đặc biệt
là nguy cơ xa rời con đường xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa
VI, tháng 3-1989) Đảng ta đã đề ra các nguyên tắc đổi mới, trong đó có hai
nguyên tắc then chốt: chủ nghĩa Mác - Lê-nin (sau này được Đảng ta bổ sung thêm
tư tưởng Hồ Chí Minh) là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta; sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước sang nhiệm kỳ Đại hội VII, tại Hội
nghị giữa nhiệm kỳ (01-1994) Đảng ta tiếp tục chỉ ra 4 “nguy cơ” đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta, là: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã
hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đúng
như dự báo của Đảng ta về nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, trong thập kỷ
qua đã có nhiều biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở ngay trong nội bộ Đảng
và hệ thống chính trị - xã hội. Điển hình là trước Đại hội XI của Đảng
(01-2011) và Kỳ họp thứ 6 (11-2013) Quốc hội (khóa XIII) thông qua Hiến pháp
năm 2013, một số cá nhân và nhóm xã hội mạng lâm thời, trong đó có nhiều cán bộ,
đảng viên thuộc nhóm1 “Kiến nghị 72” đã kiến nghị: “xóa bỏ Điều 4 Hiếp pháp
2013 (về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam), chấp nhận “cạnh tranh
chính trị”. Đồng thời, họ “kiến nghị” “phi chính trị hóa” Quân đội, và cho rằng:
“lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải
trung thành với bất kỳ tổ chức nào,…”. Nhóm “Thư ngỏ 61” (sau đó là nhóm “Thư
ngỏ 127”) kiến nghị với Bộ chính trị: “chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường
lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và
dân chủ,...”. Họ còn kiến nghị thay đổi đường lối quốc phòng - an ninh: “Quan
điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc
mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi…”.
Như
vậy, thực chất của quan điểm phủ nhận đường lối đổi mới, đồng nhất quan điểm đối
mới với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là thể hiện sự dao động chính trị;
về bản chất đó là phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là phủ nhận vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc ta. Đối với
cán bộ, đảng viên, điều này cũng có nghĩa là họ đã làm trái với Điều lệ Đảng và
các quy định khác của Đảng.
Thứ
hai, sự khác biệt giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đổi mới.
Về
mặt triết học, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đổi mới đều là sự vận động của
xã hội. Tuy nhiên, lấy sự vận động nói chung của xã hội để che dấu sự khác biệt
giữa các xu hướng chính trị, đặc biệt là sự khác biệt giữa đường lối đổi mới của
Đảng ta với tư tưởng cơ hội về chính trị - từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa
chuyển sang con đường tư bản chủ nghĩa theo mô hình phương Tây chỉ là một thủ
đoạn chính trị mà thôi. Sự khác biệt giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với
đường lối đổi mới là ở hai xu hướng chính trị trái chiều: tư tưởng “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” là nhằm thúc đẩy xã hội theo con đường tư bản chủ nghĩa, còn đổi
mới là tư tưởng chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên sự
kiên định này không đồng nghĩa với chủ nghĩa giáo điều mà là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện
thực tiễn của dân tộc ta trong thời đại ngày nay.
Thứ
ba, từ hiện thực.
Thực
hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định nhiều giải pháp, từ tư tưởng, chính
trị đến tổ chức thực hiện và công tác xây dựng Đảng. Từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở
vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1.900 USD năm
2013 lên 2.215 USD năm 2016. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có
bình quân thu nhập trung bình. Các quyền con người, trong đó có quyền dân sự,
chính trị, nhất là quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do in-tơ-nét được bảo đảm
ngày càng tốt hơn. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 50 triệu người sử dụng
in-tơ-nét, chiếm 52% dân số; riêng số người sở hữu tài khoản Facebook lên tới 35 triệu người, bằng 1/3 dân số,
trong đó 21 triệu người truy cập hàng ngày thông qua thiết bị di động. Phó Chủ
tịch kiêm Giám đốc Điều hành Google tại Đông Nam Á và Ấn Độ Rajan Anandan đã khẳng
định: “Việt Nam là nước có thị trường in-tơ-nét năng động nhất thế giới, thị
trường duy nhất có số người dùng in-tơ-nét nhiều hơn số người không dùng”.
Trong
quá trình thực hiện đổi mới, Đảng ta luôn luôn đặt lợi ích của Quốc gia - dân tộc
lên trên hết. Đại hội XII của Đảng xác định: đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên
vị trí hàng đầu; đồng thời, khẳng định ý chí quyết tâm, “kiên quyết, kiên trì”
đấu tranh để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất
nước bị động, bất ngờ trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XII) lấy nhiệm vụ “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng cũng nhằm đảm bảo sứ mệnh lịch sử của Đảng ta là lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”. Về đường lối đối ngoại và quốc phòng, an ninh, Đảng tập
trung vào nhiệm vụ duy trì môi trường hòa bình để xây dựng đất nước. Nghị
quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định rõ “đối tác” và
“đối tượng” của cách mạng Việt Nam: những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết
lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều
là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng
ta. Qua đó khẳng định, không có chuyện đường lối, chính sách đối ngoại của Việt
Nam là “tự cô lập mình”!
Như
vậy, sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta chính là sự vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật hết sức khoa học để giải quyết những vấn đề
mà cuộc sống đang đặt ra, hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” đang từng bước hiện thực hóa trong thực tiễn, được nhân
dân đồng lòng ủng hộ, quyết tâm thực hiện.
Hơn
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Điều đó chứng minh công cuộc
đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật. Đó là sự thật, là chân lý. Tự nó bác bỏ
mọi luận điệu xuyên tạc!
C.V.Linh (t2)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét