
Nhận thức đúng về nhân quyền và quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở nước ta
Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017
Đối với Việt Nam, các
thế lực thù địch luôn lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân
quyền" để công kích, bôi nhọ, vu khống Nhà nước ta nhằm thực hiện âm mưu
"Diễn biến hòa bình", hòng đưa nước ta vào quỹ đạo chi phối của
chúng.
Từ ý đồ chính trị xấu xa, họ luôn lợi dụng bộ máy tuyên truyền
khổng lồ để truyền bá các quan điểm cực đoan về nhân quyền với những luận điệu
hết sức sai lệch về quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí... Họ
tự cho mình sự độc quyền về nhân quyền; ra sức thêu dệt, bịa đặt đủ mọi thứ
chuyện để công kích các nước, tổ chức, cá nhân có quan điểm về nhân quyền không
phù hợp với họ. Họ lớn tiếng giảng dạy, chỉ bảo, “khai hóa” nhân quyền cho toàn
thế giới; tự cho mình là quan tòa có quyền phán xét về nhân quyền; coi mình là
hiệp sĩ và sen đầm mẫn cán bảo vệ nhân quyền ở tất cả các nước bằng cách xuất
khẩu, áp đặt mô hình nhân quyền của họ dưới nhiều hình thức, như: ngoại giao,
kinh tế, văn hóa..., thậm chí cả bằng vũ lực, chiến tranh xâm lược, bất chấp
các quyền cao quý như quyền sống, quyền tự quyết... của hàng triệu triệu người
dân vô tội ở các nước khác nhau... Chúng ta không ngây thơ cho rằng: quan điểm
nhân quyền của họ là đúng đắn; mô hình nhân quyền của họ là tuyệt vời, phải áp
dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chúng ta cần phân biệt giữa lời nói và
việc làm, kiểm chứng lý luận của họ trên thực tiễn lịch sử của chính nước họ và
các nước trên thế giới; so sánh và rút ra các chân lý, kinh nghiệm quý báu để
xây dựng quan niệm, mô hình bảo đảm nhân quyền của mình phù hợp với yêu cầu của
thời đại và đặc điểm nước ta.
Hiện nay, bộ máy tuyên truyền của một số nước phương Tây không
ngừng rao giảng về quan điểm nhân quyền của họ như thể một quan điểm, chuẩn mực
quốc tế thống nhất, có tính phổ quát trên toàn thế giới mà các nước đều phải
tôn trọng, bảo vệ và thực hiện nhất quán... Họ giải thích các quyền con người
như những giá trị lý tưởng cao đẹp, linh thiêng, có tính tuyệt đối, không giới
hạn, đứng trên cả pháp luật và chủ quyền quốc gia... Họ coi các quyền dân sự,
chính trị, quyền cá nhân như là vấn đề cốt lõi của nhân quyền; trong khi đó, họ
lại coi nhẹ các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền tập thể, như quyền tự
quyết của các dân tộc, quyền phát triển, quyền sống trong hòa bình... Họ tô vẽ
thành tựu nhân quyền của mình; đồng thời, cố tình xuyên tạc, bôi đen tình hình
nhân quyền của các nước khác, sử dụng vấn đề nhân quyền như một công cụ chính
trị để gây áp lực trong quan hệ quốc tế, can thiệp vào công việc nội bộ các
nước, hạn chế chủ quyền của các quốc gia khác dưới chiêu bài “thúc đẩy dân chủ
và nhân quyền”...
Nhân quyền là giá trị cao quý chung được cả cộng đồng quốc tế
chia sẻ; nhưng không phải là tài sản độc quyền của riêng một nước, một châu lục
hay của riêng các nước phương Tây... Vì thế, họ không thể độc quyền giải thích
về nhân quyền của thế giới theo quan niệm của riêng họ và cũng không thể tùy
tiện áp đặt cách giải thích đó cho cả 198 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau
có chủ quyền và quyền bình đẳng như nhau cùng tồn tại trên trái đất. Thực
tế chỉ ra rằng, quan niệm nhân quyền và Luật Nhân quyền quốc tế của Liên hợp
quốc được đại đa số các nước chấp nhận, ký kết, thông qua, thừa nhận tính phổ
quát của các quyền con người; đồng thời, các nước đều tuyên bố bảo đảm các
quyền cơ bản cho công dân của mình trong Hiến pháp. Song trên thực tế, luôn tồn
tại sự khác nhau trong nhận thức, lý giải và thực hiện nhân quyền giữa các
thành viên của Liên hợp quốc. Điều này được minh chứng hết sức rõ nét bởi quan
niệm nhân quyền của Liên minh châu Âu khác với các quan niệm của các nước Mỹ,
Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước trong Phong trào không liên kết, các nước châu
Phi,... Nguyên nhân chính là: thế giới của chúng ta rất đa dạng; mỗi nước, mỗi
nhóm nước đều có cách tiếp cận riêng của mình, gắn liền với mỗi trường phái
triết học, tư tưởng, lý luận nhân quyền, các điều kiện kinh tế, lịch sử và văn
hóa - văn minh khác nhau. Chính vì vậy, Hội nghị toàn thế giới về nhân quyền
tại Viên năm 1993 đã khẳng định một quan điểm quan trọng: “tất cả các quyền con
người đều mang tính phổ cập, không chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan
với nhau”1; các quốc gia khi xử lý các quyền con người “phải luôn
ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực, bối cảnh khác nhau về lịch
sử, văn hóa và tôn giáo”2. Như vậy, các quốc gia khi thực hiện các
quyền con người phải kết hợp đúng đắn giữa các nguyên tắc và các chuẩn mực nhân
quyền của Liên hợp quốc với điều kiện thực tế của nước mình. Các chuẩn mực quốc
tế là điều luật khung; các nước cụ thể hoá, pháp điển hóa cho phù hợp với điều
kiện cụ thể của mình sao cho thực hiện có hiệu quả. Do vậy, không có mô hình
thực hiện phổ quát, không thể sao chép nguyên si mô hình bảo đảm nhân quyền của
một nước ở châu Mỹ vào một nước ở châu Âu hay một nước ở châu Âu vào một nước ở
châu Phi... Mỗi nước có mô hình riêng của mình.
Quan niệm nhân quyền của Liên hợp quốc không đồng nhất với các
quan niệm nhân quyền của nhiều nước phương Tây, như coi nhân quyền là các quyền
tự do của cá nhân con người; các quyền đó là bẩm sinh tự nhiên, thiêng liêng,
bất khả xâm phạm, tuyệt đối, phổ quát. Trên các phương tiện thông tin đại
chúng, các nước phương Tây giải thích nhân quyền như là những tự do không bị
cấm đoán, không bị giới hạn. Mục đích của họ là cổ xúy cho một thứ "tự do
hoang dã", vô chính phủ, mà thực chất ở đó chỉ có một thứ "luật
rừng" ngự trị; những kẻ mạnh có quyền lực vô biên, những kẻ yếu thì bị
tước mất quyền. Đó là thứ tự do phá hoại, tự do dẫn tới hủy diệt, không phải là
tự do chân chính, tự do tạo ra khả năng rộng rãi cho phát triển nhân cách của
tất cả mọi người và càng không phải là thứ tự do để thúc đẩy xã hội phát triển tốt
đẹp hơn.
Chúng ta quan niệm: không thể có thứ tự do nào mà không có trách
nhiệm đi kèm. Bởi lẽ, nếu tự do là tuyệt đối, thì tự do không hạn chế của người
này sẽ dẫn tới sự vi phạm quyền con người của người khác và lẽ đương nhiên là
đem lại các tai họa cho xã hội. Điều 29 trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
(năm 1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng,...
trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật
định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các
quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về
đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”3.
Tại Công ước về các quyền dân sự - chính trị (năm 1966) được hơn 150 quốc gia
tán thành và phê chuẩn, hàng loạt các quyền dân sự, chính trị như quyền tự
do đi lại, lựa chọn nơi cư trú, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo,
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền hội họp hòa bình... đều là
các quyền bị hạn chế và sự hạn chế đó phải do pháp luật quy định. Ngoài
các lý do để bảo vệ quyền và tự do của người khác, trật tự công cộng, đạo đức
xã hội và phúc lợi chung, các quyền này còn bị hạn chế bởi sự cần thiết để bảo
vệ an ninh, lợi ích quốc gia, an toàn và trật tự công cộng...
Quyền tự do ngôn luận trong Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị thuộc các quyền
bị hạn chế. Điều 19, mục 3 của Công ước ghi rõ: "Việc thực hiện những
quyền quy định tại mục 2 của Điều này (quyền tự do ngôn luận), kèm theo những
nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể là đối tượng chịu một số hạn chế
nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần
thiết để: a) nhằm tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác; b) nhằm bảo vệ an
ninh quốc gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công
chúng"4. Bổ sung cho quy định trong Điều 19, Điều 20 của Công
ước còn quy định một hạn chế cần thiết của quyền tự do biểu đạt; theo đó, mọi
hình thức tuyên truyền cho chiến tranh, mọi chủ trương nhằm gây hằn thù dân
tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, thù
địch hoặc bạo lực, đều bị pháp luật nghiêm cấm. Điều 10 của Công ước nhân quyền
châu Âu ghi nhận một danh sách dài các hạn chế của tự do ngôn luận, vì việc
thực hiện nó có thể là đối tượng của các điều kiện, giới hạn, hay hình phạt như
trong Luật và cần thiết trong một xã hội dân chủ. Những giới hạn đó có thể được
biện minh bởi: các lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ hay an toàn công
cộng; ngăn ngừa rối loạn, tội phạm, bảo vệ sức khỏe hay đạo đức; bảo vệ danh dự
và quyền của người khác; ngăn ngừa tiết lộ thông tin mật, hay duy trì quyền lực
và tính công bằng của tư pháp.
Trong luật về tiếp cận thông tin của nhiều quốc gia hiện nay có
quy định hàng chục loại thông tin không được tiếp cận, không được công bố hay
truyền bá, nếu vi phạm sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Thế nhưng, nhiều thế lực ở
phương Tây, do vô tình hay cố ý, đã phớt lờ những quy định này; để rồi họ coi
các hạn chế đó là vi phạm nhân quyền? Lập trường của Việt Nam về vấn đề này là
rất rõ ràng; đó là, tuân thủ Công ước của Liên hợp quốc và áp dụng các quy định
của Công ước đó vào điều kiện cụ thể của mình.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền tự do ngôn luận được khẳng định
trong Điều 69 của Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, có quyền được thông tin”. Để cụ thể hóa quyền hiến định này, Nhà nước
ta đã ban hành Luật Báo chí năm 1990 và sửa đổi, bổ sung năm 1999, Luật Xuất
bản năm 2001 và đang soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin. Pháp luật nước ta
bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, báo chí và được thông tin đã tương thích cơ
bản với các quy định của luật pháp quốc tế. Chúng ta đã quy định rõ các
quyền đó trong Luật và cũng đưa ra những hạn chế các quyền đó một cách hợp pháp
như nhiều nước đã ban hành. Các chuẩn mực tự do tối đa, quá lý tưởng chưa từng
có ở nhiều nước phương Tây mà bộ máy tuyên truyền của họ ra sức thuyết giảng
hiện giờ là không phù hợp với chúng ta; không đúng với Điều 19 của Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị
thuộc các quyền bị hạn chế. Chúng ta đã và đang làm những điều cần thiết để có
các tự do đích thực cho hạnh phúc của nhân dân, cho an ninh và phát triển của
đất nước.
C.V.Vương (T6)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét