Thực chất về cái gọi là: “Chúng ta là tự do ”
Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017
Gần đây, trên một số trang mạng xuất hiện cái gọi là khẩu
hiệu: “Chúng ta là tự do” hòng tuyên truyền, kêu gọi và kích động người Việt
Nam ở trong nước và nước ngoài chống Đảng, nhân dân và dân tộc. Đây là thủ đoạn
tập hợp lực lượng rất thâm độc của các thế lực thù địch, phản động. Chúng ta
cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
Cùng với các hoạt động tán phát tài liệu tuyên truyền, xuyên
tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do, dân chủ…, các thế
lực thù địch ở nước ngoài ra sức kêu gọi người dân đấu tranh vì “tự do, dân
chủ, nhân quyền”; kêu gọi chính phủ các nước phương Tây can thiệp, ủng hộ. Thậm
chí, các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài còn kêu gọi người dân trong
và ngoài nước hãy cùng nhau đứng dậy với cái gọi là: “Chúng ta là tự do”.
Thoạt nghe, người ta, nhất là những người nhẹ dạ cả tin sẽ dễ
lầm tưởng lời kêu gọi khẩn thiết, vô vọng ấy có vẻ có lý. Còn đối với người Việt
Nam đích thực, những người đã thấu hiểu từng “chân tơ, kẽ tóc”lòng lang dạ sói
của những kẻ đề xướng về cái gọi là “chúng ta là tự do” ấy thì không thể mắc
lừa, càng không thể rơi vào cạm bẫy mà chúng giăng ra. Hãy xem thực chất của
“Chúng ta là tự do” mà các thế lực thù địch đang rêu rao là gì? Bằng những vỏ
bọc kín, với những cụm từ mỹ miều, như: “tự do tư tưởng”, “tự do nhân quyền”,
“tự do dân chủ”, “tự do tôn giáo”, “tự do ngôn luận” và hàng trăm thứ “tự do”
khác - những vấn đề mà theo đúng nghĩa đen của nó đang được cả nhân loại quan
tâm - thì mặc dù vậy vẫn không khỏa lấp và che giấu được bản chất, mục đích đạt
tới, thủ đoạn thấp hèn của những thế lực thù địch đối với Đảng, nhà nước
và dân tộc Việt Nam. Họ kêu gọi thế giới ủng hộ, kêu gọi người Việt Nam ở trong
nước và ngoài nước đòi “tự do”, đấu tranh vì “tự do” theo mô hình
phương Tây, tự do vô chính phủ, bất chấp luật pháp. Thử hỏi có quốc gia nào
trên thế giới chấp nhận điều đó? Và có quốc gia nào có thể làm ngơ và không
nghiêm trị theo quốc pháp những hành động phá hoại đất nước và dân tộc như vậy?
Điều 29 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã quy định: Pháp luật
hạn chế các quyền và tự do vì các mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng
các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm bảo đảm các yêu cầu về quốc
phòng, an ninh, trật tự công cộng, đạo đức và phúc lợi chung trong một xã hội
dân chủ. Điều 19, Công ước quốc tế về những quyền dân sự, chính trị (năm 1966)
cũng khẳng định: Quyền tự do có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự công cộng, v.v.
Trong “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động”, cộng đồng quốc
tế cũng khẳng định: “thực hiện quyền con người phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của
tính đặc thù dân tộc và khu vực về lịch sử, văn hóa và tôn giáo…”. Công ước
Châu Âu về Nhân quyền (có hiệu lực từ ngày 03-9-1953), trong khoản 2 của Ðiều
10 quy định: việc thực thi các quyền bày tỏ quan điểm, trao đổi quan điểm gắn
với các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia.
Trên thực tế, mỗi quốc gia đều căn cứ vào nhiều nhân tố: tình
hình, đặc điểm truyền thống, bản sắc văn hóa – xã hội,… mang tính đặc thù để
xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, trong đó có các luật về nhân quyền, quyền
công dân, quyền tự do ngôn luận. Ở đó không thể có thứ “tự do tuyệt đối”, “tự
do không giới hạn” mà không bị hạn chế vì những lợi ích nhiều mặt của quốc gia,
dân tộc, vì an ninh, sự ổn định xã hội. Bởi, nếu thiếu nó thì mọi nỗ lực của
con người hướng tới sự tự do đích thực đều trở nên vô nghĩa. Cũng vì vậy, nên
không phải ngẫu nhiên mà Liên minh châu Âu cho phép các nước thành viên cân
nhắc lợi ích của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn
công dân thực hiện quyền con người; trong đó, có quyền tự do ngôn luận theo
tinh thần Công ước châu Âu về nhân quyền. Điều đó cho thấy, quyền con người
luôn đặt trong môi trường hoàn cảnh cụ thể. Thụ hưởng quyền con người còn tùy
thuộc vào đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán,… cụ thể của từng nơi, của mỗi
quốc gia. Không thể áp đặt quyền con người ở nước này cho nước khác và ngược
lại.
Thực tiễn thế giới cho thấy, quyền con người bao giờ cũng gắn
chặt với quyền và nghĩa vụ công dân. Không nơi nào và ở bất cứ nơi đâu
có sự tồn tại quyền con người một cách tuyệt đối theo nghĩa muốn làm gì thì
làm, bất chấp pháp luật. Thực hiện quyền con người phải đi đôi với thực hiện
quyền và nghĩa vụ công dân. Mọi công dân đều có nghĩa vụ tôn trọng và thực thi
pháp luật hiện hành. Bất kỳ ai khi cư trú ở một nước đều phải chấp hành luật
pháp của nước sở tại, phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định
của pháp luật.
Trở lại Việt Nam, trong quá trình tìm đường cứu nước và chỉ đạo
thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn lấy “độc lập cho dân
tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân” là mục tiêu tối thượng và điều đó được kết
tinh ở chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Theo Hồ Chí Minh, giá trị
tự do là thành quả đấu tranh lâu dài chống áp bức, bóc lột của nhân loại; đó là
tự do cho những người nô lệ bị áp bức, bóc lột, “làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được được học hành”1, để tiến lên “thế giới đại đồng”. Chỉ
có chế độ xã hội chủ nghĩa thì mới có đầy đủ điều kiện đảm bảo quyền tự do của
mỗi con người một cách thực sự trên thực tế.
Hiện nay, ở nước ta, quyền tự do, quyền con người của mỗi công
dân được cụ thể hóa bởi luật pháp và được pháp luật bảo vệ. Cụ thể là, Chương
II, Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định
rõ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân. Ngoài ra,
còn có hệ thống các thiết chế để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của mọi công dân
trên mọi mặt đời sống xã hội. Đơn cử trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, không
chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể
hóa và đưa những quy định đó vào thực tiễn cuộc sống. Đến nay, cả nước có 12
tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn 100.000 chức sắc và nhà
tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ (chiếm 1/3 dân số cả
nước). Trong đó, tín đồ Phật giáo khoảng 14 triệu, v.v.
Việc in ấn, xuất bản kinh sách cũng được Nhà nước quan tâm, hầu
hết các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng nhu cầu hoạt
động của các tôn giáo. Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn giáo, mỗi năm đã cấp
phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo. Ngoài ra, quan hệ đối
ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng,
nhất là quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa
thánh Va-ti-căng, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn chính sách tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước cũng như tình hình tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của Việt Nam. Đó là sự thật, là bằng chứng sinh động và thuyết phục nhất
để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại Việt
Nam. Thử hỏi rằng, nếu Việt Nam kỳ thị tôn giáo, hạn chế và đàn áp tôn giáo, vi
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo như luận điệu mà các thế lực thù địch vẫn
thường rêu rao thì các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam liệu có thể xác lập vị trí
và phát triển ổn định như hiện nay không? Bức tranh tôn giáo ở Việt Nam có thể
phong phú, đa dạng đến như vậy hay không?
Như vậy, ở Việt Nam, khi mà các quyền tự do của mọi công dân
được hiến định, được hệ thống pháp luật bảo vệ, nhân dân đang được hưởng cuộc
sống tự do, hạnh phúc, thực sự trong thực tiễn thì có cần phải tung hô thứ khẩu
hiệu “Chúng ta là tự do” không? Tất nhiên, ai cũng biết đó là sự lừa bịp, kích
động và mục đích đen tối của những kẻ mang nặng hận thù dân tộc, cố tình ngược
lại bánh xe lịch sử. Mưu toan đó, sự ngoan cố đó chắc chắn sẽ là không tới đâu
- ảo vọng và thất bại
Để không bị “sa bẫy” với cái gọi là “Chúng ta là tự do” mà các
thế lực thù địch, phản động đang tuyên truyền và để bảo vệ quyền tự do, dân chủ
chân chính của mọi công dân, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, chúng ta cần đẩy mạnh tuyền truyền,
giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận rõ âm mưu,
thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, nhất là với cái
gọi là “Chúng ta là tự do”. Trong đó, cần tuyên truyền cả ở trong nước và đối
với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài “Đồng bào định cư ở nước ngoài là một
bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, làm cho mọi người nhận
thức một cách đầy đủ về quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta.
Mặt khác, Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện để người Việt nam ở
nước ngoài được về thăm đất nước, hiểu biết đầy đủ về cuộc sống tự do, hành
phúc của nhân dân Việt Nam; tạo điều kiện để kiều bào ở nước ngoài hướng về Tổ
quốc, đóng góp xây dựng đất nước. Đồng thời, tăng cường quảng bá sâu rộng hình
ảnh đất nước, con người Việt Nam, những thành tựu nổi bật về kinh tế, chính
trị, văn hóa, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế sau 30 năm
đổi mới, để họ không mơ hồ, ảo tưởng, “sa bẫy” của các thế lực thù địch và tích
cực tham gia đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá theo kiểu như cái
gọi là “Chúng ta là tự do”.
C.V.Vương (t6)
C.V.Vương (t6)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét