
CỦNG CỐ VÀ PHÁT HUY SỨC MẠNH NỘI LỰC DÂN TỘC ĐỂ VƯỢT QUA MỌI THÁCH THỨC
Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017
Chỉ
tính trong 1000 năm gần đây, dân tộc ta đã phải đương đầu với rất
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, mà kẻ thù lại là những nước lớn, có
tiềm lực kinh tế, về kỹ thuật hơn hẳn chúng ta. Tuy vậy, hầu hết
các cuộc xâm lược đó sớm muộn đều bị thất bại, đã nhiều thế kỷ
trôi qua, mấy câu thơ thần của danh tướng Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
đã như một tổng kết lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, và lời thề thiêng liêng của muôn
vàn thế hệ người Việt Nam trước giang sơn đất nước. Chân lý lịch sử
của Việt Nam là vậy. Mỗi người Việt Nam hôm nay đều nên suy nghĩ tiếp
về chân lý đó. Cội nguồn sức mạnh của chúng ta cũng là ở đó.
Vốn là một dân tộc hòa hiếu,
lấy nhân nghĩa làm đầu, tinh thần đó không chỉ thể hiện trong quan hệ
giữa con người với con người, trong cùng một gia đình, cộng đồng,
quốc gia. Tinh thần đó còn được thể hiện trong quan hệ đối ngoại
giữa nước ta với các nước (kể cả với những nước đang còn là kẻ
thù). Cha ông ta để lại nhiều bài học có giá trị về phương diện
này. Nhưng, có lẽ, đến Hồ Chí Minh, tư tưởng đó đã được nâng lên một
tầm cao mới trong quan hệ đối ngoại. Đối với Người, sự hòa hiếu,
khoan dung phải góp phần tạo nên mối quan hệ bình đẳng giữa các quốc
gia, dân tộc, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau khắc phục và
vượt qua những lỗi lầm của lịch sử. Trong Đáp từ tại buổi chiêu đãi
của chủ tịch G. Bi-đôn ngày mùng 2 tháng 7 năm 1946 tại Paris, Bác đã
nói “Sự thành thật và tin cẩn lẫn nhau sẽ san phẳng được hết thảy
những trở ngại. Chúng ta chẳng đã ruồng bỏ được cái chủ nghĩa quốc
gia hẹp hòi không còn thích hợp với thế giới hiện đại đó ư”.
Tính khoan dung hòa hiếu của
dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thể hiện xuất sắc nhất,
vừa mở rộng vòng tay đoàn kết với nhiều người, vừa đánh thức lương
tri mỗi người. Năm 1947, trong thư gửi giám mục Lê Hữu Từ, Bác viết:
“Chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật là ngược nhau, rõ ràng là
thế, nhưng cũng không phải vì vậy mà bài xích, nghi kị, đối đầu nhau,
cần phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận”. Cố nhiên, lòng
khoan dung, hòa hiếu của dân tộc ta là có nguyên tắc. Đối với chúng
ta, chủ quyền của dân tộc, của Tổ quốc là tối thượng, bởi vì như
Hồ Chí Minh đã nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đúng như
cố thủ tướng Ấn Độ Nê-ru đã phát biểu: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một vị lãnh tụ có sự kết hợp hiếm có giữa lòng khoan dung tột độ
và ý chí kiên quyết nhất”.
Cùng với tinh
thần hòa hiếu, lòng nhân nghĩa, đức khoan dung, dân tộc ta cũng là dân
tộc có truyền thống gắn kết các cá nhân với cộng đồng, với vận
mệnh của dân tộc. Trước họa xâm lăng hay thiên tai, mỗi người Việt Nam
vừa thấy trách nhiệm kề vai sát cánh với nhau, bất chấp chính kiến,
giai tầng, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi… Điều khá kì lạ ở Việt
Nam là ngay trong chế độ phong kiến vương quyền, trước họa xâm lăng,
nhà vua đã tổ chức hội nghị Diên Hồng để lắng nghe ý kiến của các
vị bô lão. Cũng với ý thức đó, Đại tướng quân Trần Hưng Đạo đã viết
Hịch Tướng Sĩ, kêu gọi sự kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ giữa
các tướng sĩ với quân đội “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Đến thời đại
chúng ta, trên cơ sở tổng kết các giá trị truyền thống của dân tộc,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Khẩu hiệu đó không
những đã huy động sức mạnh của
các tổ chức chính trị xã hội, của toàn dân tộc, mà còn của cả
lương tri nhân loại. Thành công của 2 cuộc kháng chiến vĩ đại chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là một minh chứng hùng hồn.
Trong các cuộc
chiến tranh chống xâm lược trước đây, ta đã thắng chủ yếu vì cả dân
tộc ra trận không chỉ bằng vũ khí, mà còn bằng các giá trị văn hóa
cao đẹp mà cha ông ta đã tạo dựng nên. Những giá trị truyền thống đó
đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, bổ sung và phát huy. Có lẽ
không phải ngẫu nhiên khi chị J. Phôn-đa, ngôi sao màn bạc Hô-li-út, sau
chuyến thăm vĩ tuyến 17 ở Việt Nam trong những ngày khói lửa ác liệt
năm 1972 đã khẳng định: “Cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của các
bạn chắc chắn sẽ thắng lợi, vì các bạn biết đặt giá trị con
người, chứ không phải là lợi nhuận ở trung tâm mọi việc”. Cũng tương
tự như vậy, GS-TS Tim-pho của Học viện Không quân Mỹ, từ giữa những
năm 70 của thế kỷ XX đã nói: “Máy bay cực kỳ hiện đại của không lực
Hoa Kỳ đã bị rơi lả tả trên chiến trường Việt Nam, vì những máy bay
đó đã vấp phải những cơn gió ngang cực mạnh, bị cơn gió ngang quật
đổ. Cơn gió ngang đó chính là những truyền thống của văn hóa Việt Nam”. Sức mạnh của văn
hóa truyền thống của dân tộc là vậy. Những giá trị đó tạo nên sức
mạnh nội sinh mà Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW
Đảng khóa XI về văn hóa vừa qua khẳng định: “Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc”.
Cũng cần nói
thêm rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay ,
khi vận mệnh của quốc gia dân tộc gắn kết chặt chẽ với nhau trong
một số trách nhiệm và nghĩa vụ chung, thì những xung đột, gây chiến
giữa quốc gia này với quốc gia khác sẽ tác động tức khắc đến đời
sống của mọi quốc gia trên thế giới. Và điều đó đòi hỏi các quốc
gia phải lên tiếng. Đó là tiếng nói không chỉ nhằm bảo vệ các lợi
ích kinh tế – xã hội cụ thể, mà quan trọng hơn đó là tiếng nói của
lương tâm, của lẽ phải. Bác Hồ từng nói: “Tuy phong tục mỗi dân tộc
một khác, nhưng có một điều mà dân nào cũng giống nhau ấy là dân
nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”. Trong hai cuộc kháng chiến xâm
lược vừa qua của dân tộc ta, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế chưa hình thành và phát triển như hiện nay nhưng tiếng nói
của lương tri nhân loại ủng hộ Việt Nam lên án các cuộc xâm lăng, thật
sự đóng một vai trò không nhỏ. Ngày nay, trong bối cảnh mới, các
quốc gia, dân tộc sẽ có nhiều điều kiện hơn, làm tăng sức mạnh tiếng
nói của lương tri loài người, nhằm ủng hộ chính nghĩa, chống lại
các hành động phi nghĩa. Càng củng cố, phát huy sức mạnh của nội
lực, tức các giá trị tinh thần truyền
thống, dân tộc ta càng có điều kiện làm sáng ngời chính nghĩa thuộc
về chúng ta.
Củng cố và
phát huy sức mạnh nội lực của văn hóa truyền thống, chúng ta sẽ tạo
được sự đồng thuận cao trong xã hội, trên cơ sở đó huy động được tối
đa những kinh nghiệm, sáng kiến của các tầng lớp nhân dân vào sự
nghiệp chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là cơ sở để xây
dựng thế trận lòng dân vượt qua mọi thách thức./
N.T. Kiên (T4)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét