Những đóng góp vĩ đại của C.Mác với nhân loại
Thứ Ba, 22 tháng 5, 2018

Kỷ
niệm 200 năm ngày sinh của C.Mác (5/5/1818 - 5/5/2018), một con số gắn với sự tồn
tại 02 thế kỷ của loài người - nó đủ lớn để minh chứng cho những lý luận của
Người vẫn còn nguyên giá trị và phù hợp với thực tiễn hiện nay. Vì vậy, chúng
ta cần ghi nhớ những cống hiến về lý luận của Người đối với nhân loại là một việc
làm hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay. Chúng ta có thể khẳng định chủ
nghĩa Mác là thành tựu vĩ đại của nhân loại, nó là cơ sở lý luận sắc bén để đấu
tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, xây xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vào
giữa thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác ra đời, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh và ở đó các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đã trở nên gay gắt, phơi bày tất
cả bản chất giai cấp của nó và sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C.Mác và
Ph.Ăngghen kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu
có phê phán các giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng nhân loại và
với tài năng của mình, các ông đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động
của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen
dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Cụ thể những đóng góp của C.Mác được biểu hiện trên những nội dung sau:
Thứ
nhất, C.Mác đã phát minh ra phép biện chứng duy vật về lịch sử. Đây là một
trong hai phát minh vạch thời đại của C.Mác. Để có được phát minh vĩ đại đó,
C.Mác đã nghiên cứu tìm ra những hạt nhân hợp lý để kế thừa và phê phán những
nhân tố bất hợp lý của hai nhà triết học đại biểu kiệt xuất của Triết học cổ điển
Đức thế kỷ XIX là Hêghen và Phoi ơ bắc. Bên cạnh đó, C.Mác cũng đã kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc những thành tựu triết học phương Đông và phương Tây, những
tinh hoa tư tưởng của nhân loại trước đó. Trước triết học Mác, thì: chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng tách rời nhau, duy vật thì không biện chứng, mà biện
chứng thì không duy vật. Nhờ giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học,
C.Mác đã xây dựng lên chủ nghĩa duy vật biện chứng, đưa ra tuyên ngôn của một nền
triết học hành động không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới đó bằng
cách mạng.
Triết
học duy vật biện chứng của C.Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy tâm coi thế
giới là do thần linh sáng tạo ra, vĩnh viễn không thay đổi, con người sống hoàn
toàn phụ thuộc vào số mệnh, may rủi, và lịch sử xã hội là do ý muốn của Thượng
đế, hay của vua chúa, anh hùng tạo nên. Vận dụng triết học duy vật biện chứng
vào việc xem xét xã hội, C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch
ra quy luật phát triển của xã hội loài người. Lịch sử loài người trước hết là lịch
sử phát triển của nền sản xuất xã hội. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo
lịch sử và động lực phát triển của lịch sử; là đội quân chủ lực của các cuộc
cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới tiến
bộ hơn. Từ đó Người khẳng định: Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công
nhân, có lý luận tiên phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân
dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng
chế độ mới - chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Thứ hai, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá
trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa - Hòn đá tảng của Học thuyết
Mác. Học thuyết kinh tế là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác. Kế thừa có chọn
lọc và với tinh thần phê phán tri thức của các học thuyết kinh tế trước đó, nhất
là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, C.Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong
lĩnh vực kinh tế chính trị học. Ông đã hoàn thiện học thuyết giá trị - lao động và đem lại cho các phạm trù tiền tệ,
giá cả, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,... một sắc thái mới, chẳng những trong xã hội
tư bản, mà trong bất cứ một xã hội nào có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Mặc dù
ngày nay, chủ nghĩa tư bản với những hình thức biểu hiện mới, khác với hồi cuối
thế kỷ XIX, song nhiều luận điểm cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn
giá trị bền vững, giúp chúng ta thấu hiểu bản chất không thay đổi của chủ nghĩa
tư bản, xuyên qua tất cả các hiện tượng của các thời kỳ khác nhau của chủ nghĩa
tư bản. Thông qua bộ "Tư bản", C.Mác còn để lại cho chúng ta một kho
tàng lý luận quý báu về kinh tế hàng hoá, về thị trường. Không phải ai khác, mà
chính C.Mác đã chỉ ra rằng, quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại trong nhiều hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau và luôn chịu sự chi phối của phương thức sản xuất
thống trị. Việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa vào nửa sau thế kỷ XIX của C.Mác có giá trị khoa học hết sức sâu sắc
- xét về mặt lý luận và ý nghĩa cách mạng to lớn - xét về mặt thực tiễn xã hội.
Nó góp phần giác ngộ cho vô sản và lao động trong cuộc đấu tranh chính trị để
xoá bỏ trật tự hiện tồn tư bản chủ nghĩa phi nhân tính, như C.Mác nói. Với phát
hiện này, C.Mác đã “vén lên bức màn bí mật” của các quan hệ kinh tế - xã hội dưới
chủ nghĩa tư bản, vạch trần một sự thực là, giai cấp tư sản đã bóc lột lao động
làm thuê của công nhân một cách tàn bạo như thế nào. C.Mác đã từng nhấn mạnh, sự
bóc lột cũng là "công nhiên, vô sỉ", gắn liền với sự giàu có của giai
cấp tư sản là sự nghèo nàn, cực khổ, bần cùng hoá của giai cấp vô sản. Đó còn
là sự bóc lột về kinh tế đi liền với áp bức về chính trị và nô dịch về tinh thần,
đẩy những người vô sản và quần chúng lao động nghèo khổ vào tình trạng tha hoá,
từ tha hoá lao động đến tha hoá bản chất con người. C.Mác cũng đề cập tới con
đường giải phóng sự tha hoá chỉ có thể là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, nguyên nhân sâu xa của mọi áp bức và bóc lột. Bộ “Tư bản” là một tác phẩm
vĩ đại mà C.Mác đã nghiền ngẫm và thể hiện suốt 40 năm. Sau khi C.Mác qua đời,
Ph.Ăngghen - người bạn chiến đấu suốt đời của C.Mác - đã viết tiếp cho C.Mác,
trên cơ sở kho bản thảo đồ sộ mà C.Mác để lại.
Thứ
ba, C.Mác đã cùng với Ph.Ăngghen xây dựng lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học,
đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành một khoa học chắc chắn nhất, mở ra kỷ
nguyên mới cho nhân loại. Nhiều vấn đề quan trọng như: sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, chiến lược và sách lược
cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, đường lối và biện
pháp xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa đã được C.Mác luận giải một cách sâu sắc
cùng với những dự báo khoa học về xã hội tương lai.
Nhờ
có thế giới quan khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát
triển của xã hội và lực lượng xã hội có
thể xoá bỏ xã hội tư bản và sáng tạo ra xã hội mới, đó là giai cấp vô sản.
C.Mác viết: "Điều mới mẻ mà tôi đã làm là đã chứng minh rằng: Một là, sự tồn
tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát
triển của sản xuất; hai là, đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính
vô sản; ba là, bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến lên xoá bỏ
mọi giai cấp và tiến lên một xã hội không có giai cấp". Đồng thời, C.Mác
và Ph.Ăng-ghen chứng minh tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
sang chủ nghĩa cộng sản và chỉ ra hai giai đoạn phát triển của xã hội mới: giai
đoạn thấp là giai đoạn vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủa nghĩa, nên còn mang
nhiều tàn tích của xã hội cũ; tiếp đó là giai đoạn cao - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Với
những thành tựu trên từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã trải qua nhiều thử
thách, nhất là từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ
nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái trào. Các nhà chính trị và tư
tưởng tư sản phản động vào lúc đó đã tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ
nghĩa Mác và rêu rao về sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, sự diệt vong của chủ
nghĩa cộng sản.
Với
linh hồn là phép biện chứng duy vật, hòn đá tảng kinh tế là học thuyết giá trị
thặng dư cùng những phát kiến vĩ đại về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung
cơ bản là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân,… chủ nghĩa Mác cho đến nay vẫn vững vàng là đỉnh cao của trí tuệ
loài người, là một học thuyết khoa học và hoàn bị, chưa có gì so sánh được. Và
đúng như một học thuyết khoa học đích thực, chủ nghĩa Mác cần được bổ sung,
phát triển, thông qua tổng kết thực tiễn thời đại và thông qua sự kết hợp với
những tư tưởng tiến bộ của các dân tộc. Có như vậy, chủ nghĩa Mác mới luôn dạt
dào sức sống, mới có thể dẫn dắt và thúc đẩy giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới đi trên con đường lớn của lịch sử, hướng đích tới chủ nghĩa
cộng sản.
Bước
sang thế kỷ XXI, nhân loại chứng kiến bao sự thay đổi cuộc cách mạng công nghiệp
bắt đầu ở các nước tư bản ngày nay đã bước sang giai đoạn thứ tư - “cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0” làm cho xã hội loài người có nhiều đổi thay nhưng những tư tưởng
có tính chất vạch thời đại ấy của C.Mác vẫn sống mãi, có giá trị và sức sống
trường tồn. Tư tưởng, lý luận ấy của C.Mác và chủ nghĩa Mác là một kho tàng vô
giá, mãi mãi cần phải khám phá, hiểu biết, vận dụng và phát triển. Để có được
những thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại đó cần phải khẳng định là sự say
mê nghiên cứu, sự tìm tòi, quá trình hy sinh phấn đấu hết mình vì nhân loại, vì
lợi ích của người lao động của C. Mác.
Kỷ
niệm 200 năm ngày sinh của C.Mác, bằng tất cả những gì mà thực tiễn cách mạng
Việt Nam và thế giới đã diễn ra trong những thế kỷ qua, cùng những thăng trầm lịch
sử chính là điều tưởng nhớ công lao to lớn mà C.Mác đã dành suốt cuộc đời cống
hiến cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người.
Theo http://kllvobi.blogspot.com
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét