
ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thứ Năm, 19 tháng 7, 2018
Thực tiễn sau hơn
30 năm đổi mới chứng minh: Việt Nam đã thu được “những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử” trong việc chuyển đổi phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung, bao cấp... sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao, liên tục và trở thành một trong nhóm các nước đang phát
triển có mức thu nhập trung bình trên thế giới.
Tuy nhiên, do sự sụp đổ của “mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu”; do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp và sự nghiệp đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu khi nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm; cộng thêm những yếu kém, khuyết điểm chủ quan như: tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới, sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, một bộ phận cán bộ, Đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về năng lực, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng... làm cho những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường càng trở nên bức xúc. Trong khi, việc đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình tìm tòi và khảo nghiệm - “mô hình” kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có sẵn... Vì vậy, về lý luận, hiện chưa khái quát được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới đòi hỏi như: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị...
Tuy nhiên, do sự sụp đổ của “mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu”; do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp và sự nghiệp đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu khi nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm; cộng thêm những yếu kém, khuyết điểm chủ quan như: tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới, sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, một bộ phận cán bộ, Đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về năng lực, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng... làm cho những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường càng trở nên bức xúc. Trong khi, việc đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình tìm tòi và khảo nghiệm - “mô hình” kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có sẵn... Vì vậy, về lý luận, hiện chưa khái quát được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới đòi hỏi như: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị...
Thực tiễn trên
làm nẩy sinh những băn khoăn, hoài nghi trong một bộ phận không nhỏ các
tầng lớp nhân dân về đường lối đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Lợi
dụng điều đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang sử
dụng nhiều hình thức, biện pháp (cả ngấm ngầm và công khai, cả trực tiếp và
gián tiếp) tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá đường lối phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ xuyên tạc
rằng: kinh tế thị trường đối lập với Chủ nghĩa xã hội và không
cần định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam...
Thực chất, đó chỉ
là những luận điệu xuyên tạc, che đậy âm mưu, thủ đoạn: thực hiện tự do hoá về
kinh tế để nhằm mục tiêu tự do hoá về chính trị; thúc đẩy quá trình “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phủ nhận, đi đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng nước ta của các thế lực thù địch
trong cuộc đấu tranh Ai thắng Ai giữa 2 con đường Chủ nghĩa tư bản và Chủ
nghĩa xã hội. Bởi vậy, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường, vận dụng trong giảng dạy môn
kinh tế chính trị Mác-Lênin nói chung và vấn đề “kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” nói
riêng...; đòi hỏi, phải nhận diện và làm rõ bản chất, mục tiêu của luận điệu
xuyên tạc trên, đồng thời cần có sự kết hợp giữa Xây và Chống, trong
đó lấy xây là chính nhằm xây dựng, củng cố lòng tin của học viên vào sự lãnh
đạo của Đảng, nêu cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu xuyên tạc,
chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách
của người cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” của Đảng trong Quân đội là vấn đề cần
thiết hiện nay.
Về bản chất, kinh
tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị trường,
lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ Hàng hoá - Tiền tệ làm cơ sở;
là kinh tế hàng hoá đạt đến trình độ sản xuất và xã hội hoá cao. Kinh tế thị
trường và kinh tế hàng hoá có cùng bản chất - vận động dựa trên cơ sở quan hệ Hàng
hoá - Tiền tệ; nhưng không phải là một. Kinh tế thị trường chỉ là nấc thang
phát triển cao của kinh tế hàng hoá; trong đó, toàn bộ, hay hầu hết các yếu tố
đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường.
Lý luận và thực
tiễn chứng minh:
Một mặt, kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân
loại, có thể tồn tại cả trước, trong và sau Chủ nghĩa tư bản; không thể cho
rằng “kinh tế thị trường đối lập với chủ nghĩa xã hội”.
Lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin đã chỉ rõ điều kiện ra đời sản
xuất hàng hóa do: có sự phân công lao động xã hội và còn có sự tách biệt tương
đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh. Sản xuất hàng hóa ra
đời trước Chủ nghĩa tư bản, tồn tại cả trước, trong và sau Chủ nghĩa tư bản;
sản xuất hàng hóa chỉ mất đi chừng nào các điều kiện cho sự ra đời và tồn tại
của sản xuất hàng hóa không còn. V.I Lênin khẳng định: phương thức sản xuất
hàng hóa Tư bản chủ nghĩa chỉ là một giai đoạn, một nấc thang phát triển điển
hình của nền kinh tế hàng hóa, với đặc trưng “sức lao động của con người
cũng trở thành hàng hóa”; và “sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư
cho nhà tư bản” là quy luật kinh tế tuyệt đối của nền sản xuất hàng
hóa Tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, V.I Lênin đã chỉ rõ: mỗi một chế độ xã hội chỉ
có thể tồn tại trên cốt vật chất của chính nó; cốt vật chất của chủ
nghĩa xã hội là nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí được áp dụng trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản
xuất Cộng sản chủ nghĩa, phân công lao động vẫn diễn ra mạnh mẽ cả bề rộng và
chiều sâu và còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất;
cho nên, sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại và cần thiết để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là khách quan.
Thực tiễn chứng minh, kinh tế hàng hoá đã từng được áp dụng trong thời
kỳ đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào những năm 1921 - 1924, với việc
áp dụng mô hình phát triển kinh tế hàng hoá (chính sách kinh tế mới - NEP),
đã đưa nước Nga thoát khỏi khủng hoảng sau thời kỳ nội chiến. V.I Lênin khẳng
định: trao đổi hàng hoá là “chiếc đòn xeo” chủ yếu của chính sách kinh tế mới,
trên cơ sở Nhà nước nắm các đòn bẩy chỉ huy đã ổn định được đồng Rúp và chế độ
tài chính; thắng được nạn đói và bội thu thuế lương thực mà hoàn toàn không
dùng biện pháp cưỡng bức, nông dân hài lòng; công nghiệp đang trên đà phát
triển; chính quyền Xô viết ngày càng vững vàng...
Thực tiễn ở Trung Quốc cho thấy: năm 1979 Đặng Tiểu Bình cho rằng “Nói
kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chỉ có kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm; chủ nghĩa xã hội vì sao không
thể làm kinh tế thị trường? Kinh tế thị trường không thể nói là chủ nghĩa tư
bản”[1]. Và “Kinh tế kế
hoạch không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch,
kinh tế thị trường không có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có
thị trường”[2] . Tuy nhiên, để
“kinh tế thị trường” trở thành chủ trương, đường lối chính thức của Đảng Cộng
sản Trung Quốc là một quá trình nhận thức về lý luận và thực tiễn hơn 10 năm.
Nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về cải cách thể chế kinh tế
(tháng 10 - 1984), mới quyết định chuyển từ mô hình “Kinh tế kế hoạch” sang
phát triển theo mô hình “Kinh tế hàng hóa có kế hoạch”. Đến Đại hội lần thứ XIV
(10 - 1992), Đảng Cộng sản Trung Quốc mới quyết định chuyển sang phát triển
theo mô hình “Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”.
Có thể thấy, lý luận “Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” của Trung
Quốc là một sáng tạo có ý nghĩa quan trọng, làm phong phú nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, bước đầu nó đã được khảo nghiệm trong
thực tiễn cải cách, phát triển nền kinh tế của Trung Quốc. Thực tiễn chứng
minh: từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị phá hoại nghiêm trọng trong
“phong trào tiến vọt” và “cách mạng văn hóa”; gần 40 năm qua, nền kinh tế Trung
Quốc luôn đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới (GDP tăng bình quân
10%/năm), vươn lên trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, ngoại
thương đứng thứ 2 thế giới với tổng kinh ngạch 9.800 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2016 (năm 2017), diện
tích đất trồng trọt chỉ bằng 9% của thế giới nhưng nông nghiệp Trung Quốc đã
nuôi sống 1,3 tỷ dân bằng 21% dân số thế giới. Hiện nay, đang trở thành đầu tàu
kéo theo sự phát triển nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thực tiễn quá trình đổi mới -
chuyển đổi mô hình phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp...
sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và nay là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam càng chứng tỏ:
việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tố
nội tại, cần thiết để xây dựng cốt vật chất của Chủ nghĩa xã hội. Trong những
năm 80 của thế kỷ 20, nước ta bị lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng (lạm phát năm 1989 lên 750%, sản xuất không đủ tiêu dùng (phải
nhập khẩu lương thực), đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; cùng với tác động
khách quan của sự xụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu làm cho niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa bị suy giảm nghiêm trọng...). Nhưng, chỉ sau 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới, như Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(1996) đã khẳng định: Về cơ bản nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội kéo dài nhiều năm. Tổng kết thành tựu 20 năm đổi mới, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Hai mươi năm qua,
với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”[3]. Thực tiễn từ
năm 1991 đến nay cho thấy: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt gần 7%/ năm,
đưa nước ta từ 1 nước kém phát triển có mức thu nhập thấp, phải nhập khẩu lương
thực... trở thành một trong nhóm các nước đang phát triển có mức thu nhập trung
bình và là nước có khối lượng xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới; đời
sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị - xã hội ổn định; khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng được củng cố, tăng cường; quốc phòng - an ninh được giữ vững; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Thành tựu đó, có ý nghĩa
lịch sử quan trọng, đã và đang tạo thế và lực mới để xây dựng cốt vật chất của
chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trở thành yếu tố nội tại, bền vững trong phát triển nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam; không thể cho rằng: không cần “định hướng xã hội
chủ nghĩa” trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thực chất, luận
điểm trên đã đồng nhất giữa mô hình, phương thức phát triển với bản
chất của nền kinh tế thị trường; đồng nhất yếu tố kinh tế kỹ thuật
với yếu tố kinh tế xã hội của nền kinh tế thị trường... Nhằm phủ nhận và
đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, từ bỏ mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã
hội và Chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Bởi vì, bản thân nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước chỉ là phương thức, cách thức phát triển kinh tế
trên cơ sở nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; nó không thể
quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Mà ngược
lại, bản chất của quan hệ sản xuất giữ địa vị thống trị và bản chất, năng lực
của Nhà nước quyết định bản chất, mục tiêu phát triển của nền kinh tế thị
trường. Thực tiễn chứng minh: bản chất nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa
hoàn toàn khác với bản chất nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế
thị trường Tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống
trị - chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là chủ thể, các hình thức quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất khác là thứ yếu. Nguyên tắc phân phối theo tư bản là
chủ thể, các hình thức phân phối khác là thứ yếu. Nhà nước Tư sản - đại biểu
cho quyền và lợi ích của thiểu số (giai cấp tư sản); chứ không phải là đại biểu
cho quyền và lợi ích của quảng đại các giai, tầng trong xã hội. Sự quản lý,
điều tiết của Nhà nước Tư sản đối với nền kinh tế là nhằm bảo đảm duy trì sự
thống trị và bóc lột của giai cấp tư sản đối với các tầng lớp, giai cấp khác...
Chính bản chất quan hệ kinh tế - chính trị đó, quyết định bản chất, mục tiêu
của nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa là bóc lột ngày càng nhiều giá trị
thặng dư cho nhà tư bản.
Trong nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa dưới dạng thuần túy (khi đã xây dựng xong chủ nghĩa
xã hội) thì, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữ địa vị thống trị - chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất là chủ thể, các hình thức quan hệ sở hữu khác là
thứ yếu. Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và khuyến khích các
thành phần kinh tế phi công hữu phát triển phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ thể; kết hợp với các hình thức quan hệ phân phối khác bảo đảm hài hòa các
lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế và người lao động. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, điều tiết các hoạt động
kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu phục vụ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân
dân. Tuy nhiên, cần nhận thức sâu sắc rằng: ở Việt Nam hiện nay mới đang phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ chưa phải
là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; vì vậy, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là điều kiện tiên quyết và trở thành yếu tố nội tại, bền vững trong phát triển
nền kinh tế thị trường vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, cả lý luận và
thực tiễn trên chứng tỏ: sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn
đúng đắn: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành
tựu phát triển của nền văn minh nhân loại; tồn tại khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây
dựng”[4]. Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trở thành yếu tố nội tại, bền vững trong phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Không thể cho rằng: kinh tế
thị trường đối lập với chủ nghĩa xã hội, chỉ có và tồn tại dưới Chủ nghĩa tư
bản; không có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta là sự vay mượn của Chủ nghĩa tư bản...
Để đấu tranh làm
thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với đường lối
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, chúng
ta cần có sự thống nhất về nhận thức tư tưởng và làm rõ các nội dung cơ bản sau
đây:
(1) Phát triển nền kinh tế thị trường là tất
yếu khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phát triển nền kinh tế thị trường phải tôn trọng các nguyên tắc của cơ chế thị
trường; chú trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội
và bảo vệ môi trường... nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
(2) Giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH rút ngắn - đến năm 2020,
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện tiên quyết để
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam; ngược lại, sẽ làm thay đổi bản chất, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường và dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
(3) Định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường là nền kinh tế đang trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chứ chưa có ngay nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn
ở trình độ sơ khai; nên con đường hướng tới chủ nghĩa xã hội còn lâu dài, khó
khăn, phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ; phải áp dụng nhiều hình thức kinh tế
quá độ, nhiều biện pháp trung gian... Nên, phải phân biệt rõ mục tiêu chiến
lược cuối cùng với mục tiêu sách lược trong từng bước quá độ nhỏ, tránh nóng
vội, chủ quan, hoặc duy ý chí... Trong đó cần lưu ý, ở nước ta quan hệ bóc lột
chưa thể xoá bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Mà
phải thấy, chừng mực nào đó quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản
xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì chừng đó chúng ta còn phải
chấp nhận sự hiện diện của nó. Mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy
móc xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách
cũng như có thái độ phân biệt đối xử với các tầng lớp doanh nhân đều xa rời
thực tế và không thể thực hiện được./.
H. Đức T3 (st)
[1] Văn truyện Đặng Tiểu Bình, Tập
II, Nxb Nhân dân, 1994, tr. 236.
[2] Văn truyện Đặng Tiểu Bình, Tập
III, Nxb Nhân dân, 1993, tr. 373.
[3]
Đảng Cộng sản Việt Nam ,
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG.H. 2006. tr.67.
[4] Đảng CSVN. Văn kiện ĐHĐB
toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG. Hà Nội, 1996, tr.97.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét