
Cần nhận thức đúng quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin
Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2018
Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Ngày nay, QCN được xem như
là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế
độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa.
Quyền tự do ngôn luận, báo chí và quyền
tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản, quan trọng của cá nhân được quy định
trong nhiều công ước quốc tế về QCN. Ở Việt Nam, QCN được quy định trong các
hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013.
Thế nhưng trong dịp đầu năm 2018, trên
trang mạng Dân luận và nhiều hãng thông tấn, báo chí phương Tây đã tán phát
“Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật”. Văn bản này do những tổ chức
xã hội mạng phi pháp và một số cá nhân tự xem mình là người “bất đồng chính
kiến” ký. Điều đáng chú ý là có nhiều trang mạng và cá nhân ở nước ngoài, như
Hoa Kỳ, Canada, Australia… đã hùa theo “Bản lên tiếng...” mà về bản chất là sự
xuyên tạc, phủ nhận quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet ở Việt Nam. “Bản
lên tiếng...” đưa ra một số vụ án, trong đó những bị can, bị cáo đã sử dụng
mạng xã hội, nhất là Facebook làm minh chứng. Văn bản ảo này đòi hủy bỏ nhiều
điều luật trong Chương XI-Về các tội phạm an ninh Quốc gia, như Điều 79 (Tội
lật đổ chính quyền nhân dân), Điều 88 (Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) và Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân) của Bộ luật Hình sự 1999, vẫn được giữ lại trong Bộ luật Hình
sự 2015. Và họ còn đòi “trả lại toàn bộ sự thật liên quan đến biến cố Mậu Thân,
1968”.
Pháp luật Việt Nam cũng như các quốc gia
khác, quyền bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ. Hiến pháp và nhiều bộ luật Việt
Nam đã quy định rõ ràng các quyền tự do ngôn luận, báo chí, kể cả sử dụng mạng
xã hội và quyền tiếp cận thông tin… Cho đến nay, ở Việt Nam có hàng triệu người
đã và đang sử dụng mạng xã hội để trao đổi thông tin, chia sẻ quan điểm chính
trị, giá trị xã hội một cách công khai. Hơn nữa, mạng xã hội còn được Nhà nước
Việt Nam đánh giá là một điều kiện cho sự phát triển của đất nước.
Theo tổ chức nghiên cứu về mạng xã hội
quốc tế-Next Web, Việt Nam nằm trong “Top 10” quốc gia có nhiều người dùng
Facebook nhất thế giới. Số người có tài khoản trên Facebook là 64 triệu người,
chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân có thể đăng tải lên
mạng và tải về các video/clip hoàn toàn không bị cấm đoán nếu không vi phạm
pháp luật. Vậy vì sao trong số 64 triệu tài khoản Facebook của người Việt chỉ
có một số rất ít người, như Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Hoàng Đức Bình…bị ra
tòa?
Đó là vì họ đã vi phạm pháp luật. Chẳng
hạn Hồ Văn Hải với trang blog và tài khoản Facebook đã đăng nhiều bài viết bôi
nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; Vũ Quang Thuận và
Nguyễn Văn Điển đã đăng tải nhiều video/clip lên internet, phỉ báng chính
quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật. Hoàng Đức Bình vi phạm tội “Chống
người thi hành công vụ”; “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, quy định tại Điều 257
và 258 của Bộ luật Hình sự (1999) trong vụ “biểu tình bất bạo động” đòi đuổi
Formosa, tụ tập đông người cố tình gây ách tắc Quốc lộ 1A đoạn qua Hà Tĩnh,
Nghệ An vào tháng 5-2017.
“Bản lên tiếng...” đòi trả lại “Toàn bộ sự
thật liên quan đến biến cố Mậu Thân, 1968” thì câu trả lời là: Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nằm trong chiến lược quân sự, chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược. Cuộc tổng tiến công này đã đập tan ý chí giành chiến thắng của đế
quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, tạo thế và lực để quân dân ta
giành toàn thắng vào năm 1975. Nếu ai đó thật sự thương cảm đồng bào bị “sát
hại” (như “Bản lên tiếng...” viết) trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968… thì hãy nhớ thắp hương cho hàng triệu đồng bào, chiến sĩ cách
mạng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh chống xâm lược này… trong đó có những
người đã ngã xuống trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Tôn trọng và bảo đảm QCN thuộc bản chất và
là một mục mục tiêu của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời kỳ
1975-1986 do nhận thức lý luận về CNXH-Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây
dựng xã hội XHCN kiểu cũ, sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường bị xóa bỏ, một số
QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội đã bị hạn chế. Trong thời kỳ đổi mới (từ 1986
đến nay) với mô hình XHCN kiểu mới-xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, các QCN ở Việt Nam được được tôn trọng và bảo
đảm đầy đủ.
Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 dành cả
một chương (Chương II ) quy định về “QCN, quyền và nghĩa vụ công dân”. Chương
này, không chỉ quy định đầy đủ các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân mà còn quy
định những nguyên tắc cơ bản về QCN. Những nguyên tắc đó bao gồm: 1) Nguyên tắc
về mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, trong đó Nhà nước có nghĩa vụ,
người dân là chủ thể của quyền; 2) Nguyên tắc hạn chế quyền (Điều 24); quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình…
(Điều 25) có thể bị hạn chế “vì lợi ích an ninh quốc gia, trật tự xã hội…”.
Những năm qua, QCN, quyền công dân của
nhân dân Việt Nam không chỉ được quy định trong Hiến pháp, pháp luật mà còn
được bảo đảm trong thực tế. Nhiều quyền dân sự, chính trị đã được bảo đảm ngày
càng tốt hơn. Qua nhiều hình thức cung cấp, ngoài hệ thống báo chí trong nước,
người dân Việt Nam còn được tiếp xúc với 75 kênh truyền hình nước ngoài thuộc
nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới. Hiện nay, 20 cơ quan báo chí nước
ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam. Đặc biệt, internet được Nhà nước
khuyến khích sử dụng. Hiện, có tới 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội,
hơn 1.170 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động. Giá dịch vụ internet
ở Việt Nam rẻ nhất khu vực. Ngày nay, người dân Việt Nam có thể tiếp cận tin
tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: AFP, AP, BBC,
VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times…Với những số liệu nêu trên,
không thể nói quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet ở Việt Nam bị “bóp
nghẹt” như nhiều người tự xưng là người “bất đồng chính kiến” nói.
Năm 2016, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin (TCTT). Đây là một văn kiện pháp luật
cụ thể hóa về quyền tự do ngôn luận, báo chí của Hiến pháp năm 2013. Theo quy
định của Luật TCTT thì quyền TCTT là một quyền có thể bị hạn chế hoặc là quyền
có điều kiện. Những quyền bị hạn chế chẳng hạn: “Thông tin thuộc bí mật Nhà
nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị,
quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, ...”; những thông tin mà “nếu để tiếp
cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an
ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng…” (Điều 6). Những thông tin được tiếp cận có điều kiện:
“Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận nếu chủ sở hữu bí mật
kinh doanh đó đồng ý”... "Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng
tư, nếu được người đó đồng ý” (Điều 7). Điều 11 quy định về các hành vi bị
nghiêm cấm, bao gồm: “Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn
việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin… Cung cấp hoặc
sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới,
gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức...”
Luật này cũng quy định quyền và nghĩa vụ
của công dân (trong việc TCTT). Đó là những quyền sau: “Được cung cấp thông tin
đầy đủ, chính xác, kịp thời; Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật về tiếp cận thông tin”. Đồng thời công dân có nghĩa vụ sau: “Tuân thủ quy
định của pháp luật về TCTT; …Không làm sai lệch nội dung thông tin đã được cung
cấp; Không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của
người khác khi thực hiện quyền TCTT”.
Trước tình hình nhiều cá nhân, tổ chức sử
dụng mạng xã hội, internet vi phạm quyền, lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích cá
nhân, Bộ luật Hình sự 2015 đã có những quy định bảo vệ các quyền này. Điều 288
quy định về Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông: “Phạt tiền” người nào thực hiện nhằm “thu lợi bất chính”; “gây dư luận
xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân” số tiền phạt lên đến hàng tỷ
đồng. “Phạt cải tạo không giam giữ” phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm đối với những
người: a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông “những thông tin trái với quy
định của pháp luật...”.
Thời gian qua, không ít người cho rằng,
mọi người đều có quyền sử dụng mạng viễn thông, mạng máy tính, mạng xã hội-xem
đó là một quyền tuyệt đối không có giới hạn. Nói cụ thể là người ta hiểu rằng
có quyền đưa thông tin sai sự thật, thông tin bịa đặt... lên mạng mà không phải
chịu trách nhiệm gì về những thông tin mình đưa lên. “Bản lên tiếng...” nói
trên là một ví dụ. Trong nhiều “tuyên ngôn”, “tuyên bố”, “thư ngỏ” gửi cơ quan,
tổ chức, các đồng chí lãnh đạo... thời gian qua thực chất là thủ đoạn chính trị
xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc lịch
sử cách mạng, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo; phá hoại mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân; kích động hận thù dân tộc; phá hoại quan hệ quốc tế của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam. Bởi vậy hơn lúc nào hết, cán bộ, đảng viên và người dân cần
hiểu rõ, nắm vững các quy định của pháp luật về quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận, quyền TCTT; nâng cao tinh thần cảnh giác với những thủ đoạn tung tin ảo
trên mạng xã hội, tránh tình trạng vô tình trở thành người vi phạm pháp luật,
phá hoại chế độ.
B. Tú (theo qdnd.vn)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét